Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2007

Miệng lưỡi nhân gian - Lưu Chí Vỹ

Tay trắng làm nên (Chương 6:Cách Ứng Biến)

Chương 6
Cách Ứng Biến

Tài ứng biến là hình thức đơn sơ nhất của khả năng sáng tạo. Nó là nghệ thuật đọ sức với sự bất ngờ, lợi dụng những hoàn cảnh bất ngờ.
Thanh niên nào muốn thành công phải tập cho thuần nghệ thuật đó, thuần tới mức nó trở thành một phản ứng tự nhiên, óc mình lúc nào như cũng đợi thời cơ, không bao giờ bị hoang mang, lạc nẻo khi gặp một tình thế chưa hề tính trước.
Khả năng ứng biến có một vị trí lớn trong nghệ thuật sống. Trong nghệ thuật thành công về doanh nghiệp, nó còn quan trọng vô cùng.
Tôi nhiệt liệt khuyên các bạn trẻ học cách ứng biến nếu muốn thành công. Những tấm gương tôi đưa ra dưới đây đều là những nhân vật trong chiến tranh, như vậy không phải là vì tôi cho rằng thanh niên ngày nay cần chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh dã man và vô lí nữa. Trái lại, tôi rất mong họ được sống trong cảnh thái bình. Nhưng trong chiến tranh có nhiều vấn đề xuất hiện một cách thình lình, mạnh mẽ, cho nên dùng làm thí dụ để nêu gương thì không gì bằng.
Thanh niên nào muốn tập ứng biến nên nghiên cứu trước hết đời Huân tước Winston Churchill. Hầu hết mỗi hành động của ông trong thời chiến đều có tính cách ứng biến.
Cuộc chiến đấu của nước Anh chống xâm lăng là một bản anh hùng ca nhờ tài ứng biến của một số người, nhờ tài khéo léo nắm cơ hội, nhờ những sự quyết định của cá nhân và nhờ những phương tiện ứng phó kịp với hoàn cảnh. Lúc đó ai cũng tin rằng quân Đức từ bờ biển Pháp thế nào cũng ồ ạt qua xâm chiếm nước Anh; làm sao ngăn chặn chúng được? Tình thế yên hay nguy hoàn toàn do phi cơ Anh làm chủ được không phận hay không. Muốn làm chủ không phận thì phải có nhiều phi cơ khu trục. Rốt cuộc Anh đã thắng trận đó nhờ tài năng và lòng hi sinh của phi công, đành rồi, nhưng cũng là nhờ chính phủ đã biết liệng vào sọt giấy tất cả những kế hoạch đẹp đẽ để chế tạo cấp tốc nhiều phi cơ mà đối phó kịp với hoàn cảnh. Nếu cứ ngồi đó mà nghiên cứu kế hoạch thì nhất định là thua; nhờ chế tạo phi cơ mới thắng được.
Đầu thế chiến, quân đội Anh thua trên lục địa (tức Pháp, Bỉ), mất nguồn tiếp tế thực phẩm. Kĩ nghệ hàng không cần nhất là nhôm. Mà lúc đó không còn nhận được chất bauxite, một thứ quặng nhôm nữa. Ba phần tư số sắt, thép nhập cảng và đại đa số quặng sắt đến từ châu Âu qua đường lục địa đã bị quân Đức chiếm, Anh làm sao đương đầu với cuộc khủng hoảng đó được?
Bằng mọi cách phải tìm những nguồn tiếp tế mới, tạo những đường chuyên chở mới, để nhập cảng nhôm, sắt, thép. Đã mất thị trường châu Âu thì phải tìm nguồn hàng ở thị trường châu Phi và châu Mỹ.
Tháng chạp năn 1941, Churchill đòi “có được thêm nhiều khí cụ để làm việc”. Ông ấy có đợi người ta thành lập một cơ quan không? Ông ấy có tin ở máy móc không? Có bắt Bộ Quân nhu phải làm việc theo đúng những nguyên tắc hành chính không? Tuyệt nhiên không. Ông qua Washington tìm kiếm khí giới và tàu cho lục quân và thuỷ quân Anh. Và ông dắt tôi đi theo.
Tới Washington, chúng tôi thấy rằng người Mỹ đã thiết lập cả một chương trình sản xuất. Họ đã nghiên cứu kế hoạch cực tỉ mỉ, coi trên giấy, ra vẻ đồ sộ lắm. Các kế hoạch đó đóng lại thành tập rất đẹp đẽ, có tài liệu còn đem in nữa, thật là tuyệt khéo, không còn chê vào đâu được.
Nhưng trong cái công trình lí thuyết đẹp đẽ đó, có một điểm không ổn: là kế hoạch không hợp với nhu cầu của các nước Đồng minh.
Nhiệm vụ của tôi là giải thích cho Chính phủ Mỹ hiểu điều đó. Tôi phải chứng minh rằng Chính phủ Washington sản xuất khí giới theo khả năng vĩ đại của Mỹ, chứ không phải theo những suy tính tỉ mỉ của các nhà chuyên môn lập kế hoạch.
Muốn vậy thì Chính phủ Mỹ phải bỏ lề lối cũ đi mà ứng biến theo một đại quy mô chưa từng thấy mới được.
Tạp chí của chính quyền: Industsial Mobilisation for war (Động viên kĩ nghệ cho chiến tranh) ghi lại nỗi xúc động mà chúng tôi đã gây ra ở Washington. Chúng tôi bất chấp những nghi thức ngoại giao, lặp đi lặp lại hoài quan điểm của chúng tôi với các nhà lãnh đạo ở toà Bạch ốc, với ông Phó Tổng thống và trong tất cả các cuộc tiếp xúc khác.
Tôi phải chiến đấu với Tổng thống Roosevelt, tấn công ông liên tiếp bằng thư từ, thuyết minh; trong các cuộc hội đàm riêng, tôi ráng chứng minh cho ông thấy rằng phải bỏ mọi kế hoạch đi mà xông vào con đường sản xuất quy mô khổng lồ mới được. Cuộc vận động của chúng tôi hăng hái tới mức tất cả Washington phải tham dự vào, cả những nhật báo nữa, gây một sự kích thích mạnh trong mọi giới.
Lí lẽ tôi đưa ra đều dựa trên kinh nghiệm bản thân của tôi. Tôi cho rằng nước Mỹ năm 1942 có thể sản xuất một mình được: 45.000 xe thiết giáp, 17.700 đại bác chống chiến xa, 45.000 đại bác phòng không, 24.000 phi cơ khu trục, và nhiều chiến cụ khác nữa.
Các nhà chuyên môn lập kế hoạch la lên, bảo tôi có điên khùng mới đặt vấn đề như vậy.
Không nghi ngờ gì nữa, nếu Tổng thống Roosevelt không có óc thực tế để nhận thấy giá trị đề nghị của chúng tôi rồi chấp thuận nó thì người ta đã theo chương trình của các kế hoạch gia đó rồi. Và nếu chủ trương của các kế hoạch gia trong phòng giấy đó mà thắng thì Đồng minh đã không thắng được Đức năm 1945.
Nhờ Tổng thống Roosevelt mà người Mỹ chấp nhận dự tính của chúng tôi về khả năng sản xuất. Người ta lập ngay một chương trình chế tạo cần tới hàng tỉ Mỹ kim rồi đưa qua Quốc hội biểu quyết. Nhờ chương trình đó mà chúng ta mới đè bẹp quân địch được về phương diện võ bị.
Rốt cuộc chẳng những người Mỹ thực hiện được mà còn vượt chương trình sản xuất đó nữa. Phương pháp ứng biến đã thắng thủ tục kế hoạch. Thời bình cũng như thời chiến, hễ gặp cơn nguy, thì luôn luôn phương pháp ứng biến tỏ ra có hiệu quả đặc biệt. Người nào bị cột chặt vào thủ tục thì chưa chiến đấu đã thua rồi vì bỏ phí quá nhiều thì giờ để suy nghĩ và do đó, bị biến cố vượt mất. Người biết ứng biến đã lựa xong được một chiến thuật mới mà kẻ giữ thủ tục vẫn chưa xét xong các khía cạnh của vấn đề.
Nhưng chỉ nên ứng biến trong khi còn kịp thắng được tình thế. Theo thủ tục hành chính cho tới khi mọi việc đã hỏng, rồi hi vọng rằng lúc đó còn có thể ứng biến để lật lại tình thế như một phép mầu là hi vọng hão. Phải biết ứng biến kịp thời từ khi những khó khăn đầu tiên mới xuất hiện. Lúc đó, dễ diệt chúng lắm, để muộn thì không sao thắng chúng được nữa. Người nào biết quyết định mau mắn, rồi lại biết mau mắn bỏ những quyết định đó nếu thấy nó không có kết quả tốt thì gặp những tình thế ghê gớm nhất, cũng có thể lợi dụng nó được.
Biết ứng biến mau mắn, chuyển họa thành phúc thì nhất định là thành công.
Vậy phải coi chừng những con người có tinh thần cứng nhắc, cố chấp. Con người ngồi êm ái trong chiếc ghế bành rồi vui vẻ trình bày tại sao việc này không làm được, việc kia làm không được thế nào cũng thua con người đại đởm, chịu khó tìm cách làm cái việc không thể làm được đó. Nói cách khác: bạn nên coi chừng đấy, đừng mắc cái chứng thư lại. óc quá chú trọng tới giấy tờ, nguyên tắc hành chính là kẻ thù của óc quyền biến.
Các nhà tổ chức luôn luôn có khuynh hướng tổ chức quá mức mà sự tổ chức quá mức, quá tỉ mỉ đưa xí nghiệp tới sự sụp đổ. Điều đó được chứng minh ở Liên bang Xô Viết rõ hơn ở đâu hết. Liên bang Xô Viết tin ở chính sách thiết lập kế hoạch sản xuất dài hạn và kiểm soát chặt chẽ từng ngành kĩ nghệ một. Chính Xtalin kể lại cuộc đàm thoại dưới đây giữa ông và một ủy viên nhân dân có trách nhiệm tổ chức các nông trang tập thể.
Xtalin: - Công việc gieo mạ tới đâu rồi? Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, đồng chí hỏi về công việc gieo mạ ư? Thì lúc này chúng tôi chỉ lo tiến hành công việc đó. Xtalin: - Tốt, rồi sao? Ủy viên: - Chúng tôi sẽ nghiên cứu tỉ mỉ từng tiểu tiết một của vấn đề. Xtalin: - Vậy thì tới đâu rồi? Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, đương có sự thay đổi. Một sự thay đổi quyết định. Staline: - Rồi làm sao nữa? Ủy viên: - Chúng tôi có thể nói rằng sẽ có một sự tiến bộ vĩ đại.Xtalin: - Vậy thì công việc gieo mạ tiến tới đâu rồi? Ủy viên: - Thưa đồng chí Xtalin, tới hôm nay vẫn chưa khởi sự ạ.
Chắc chắn là các nhà tổ chức có một vai trò lớn trong hoạt động kinh doanh của loài người. Nhưng vai trò đó không bao giờ được coi là chủ yếu vì nếu vậy thì tổ chức sẽ hóa ra vô ích. Người thành công bẩm sinh đã có tinh thần tổ chức nhưng sở dĩ thành công là vì không chịu nô lệ óc tổ chức. Người đó không khi nào kiên nhẫn chịu đựng những cuộc họp kéo dài không dứt, trong đó người ta chỉ đua nhau múa mỏ và ngăn chặn mọi hành động.
Người thành công cũng không cho các “kế hoạch” một giá trị quá đáng. Kế hoạch có thể sai. Khi thấy sai, người ta lại lập những kế hoạch mới một cách rất kĩ lưỡng để đem ra thực hiện nhưng trước khi thực hiện phải trình lên cấp trên để được chấp thuận đã và tới khi được chấp thuận thì tình thế đã thay đổi hẳn rồi, không thể đem thực hiện được nữa. Nếu phải đợi phản ứng của một cơ quan, một tổ chức, một cuộc họp thì không thể nào đối phó kịp với một tình thế bất ngờ.
Đó là một bài học mà không bao giờ tôi quên được. Cho nên tôi xin khẩn khoản nhắc các vị chủ xí nghiệp phải đặc biệt coi chừng hoạt động của các phòng quản lí, đừng để họ hoạt động trái với quyền lợi của hãng. Đặt ra phòng quản lí là để cho công việc chạy chứ không phải để ngăn cản công việc.
Nếu ta không coi chừng thì nhân viên tổ chức đáng lẽ phục vụ kĩ nghệ sẽ biến thành những ông chủ độc tài mất. Tới mức đó thì xí nghiệp bắt đầu suy sụp rồi. Sự tổ chức quá mức là kẻ thù của sự hoạt động trong công việc kinh doanh.
Trong chiến tranh, quốc gia thắng được nhờ các người chỉ huy biết ứng biến; nhưng, các nhà tổ chức vẫn có thể giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, chính phủ thành khách hàng duy nhất, tiêu thụ tất cả những sản phẩm trong nước. Trên thị trường không còn luật cung cầu nữa, mà mọi sự đổi chác đều theo nguyên tắc này: giá bán bằng giá vốn cộng thêm mấy phân lãi. Do đó mà năng xuất giảm đi, tiền công tăng lên một cách tai hại; trong các khu vực hoạt động kinh tế, chỉ nhờ có lòng ái quốc mà người ta hãm bớt được mọi sự quá lố.
Khi thái bình trở lại, phải một thời gian lâu tình trạng đó mới mất được. Các nhà sản xuất lúc đầu vẫn theo lối cũ trong thời chiến: Định giá bán bằng giá vốn cộng cới mấy phân lãi; còn các nhà cầm quyền cũng không vội gì từ bỏ cái uy quyền lớn của mình, uy quyền kiểm soát kĩ nghệ. Người ta không thèm nghe lời những kẻ đòi thay đổi tình thế, người ta bỏ qua những cơ hội mới. Các nhà chuyên môn về kế hoạch vẫn làm mưa làm gió được trong một thời gian.
Nhưng dần dần sự kiểm soát của chính phủ nới lỏng ra mà năng suất trong các xí nghiệp tăng lên, kinh tế lấy lại sức. Và môi trường hoạt động lại mở rộng cho sự tự do kinh doanh.
Còn một nguy hại nữa cũng liên quan tới sự tổ chức quá mức. Tôi muốn nói tới cái nguy hại giao một cơ sở kinh doanh mới thành lập cho những người rất thạo việc, “cái gì cũng biết”. Người ta thường nghĩ rằng muốn cho một xí nghiệp thịnh vượng thì phải tìm cho được người nào có nhiều kinh nghiệm nhất mà giao cho việc điều khiển. Và người ta tự nhủ một con người như vậy phải là người đã thành công trong nhiều xí nghiệp. Người ta bèn nhờ cậy người đó điều khiển xí nghiệp mới thành lập của mình, tin chắc rằng trước kia người đó đã thành công thì không lí gì bây giờ lại thất bại.
Khốn nỗi, trong thực tế không luôn luôn như vậy. Nói cho đúng thì cách làm ấy rất sai lầm. Vì áp dụng nó mà xảy ra rất nhiều lầm lẫn và thất bại. Thường khi - tôi muốn nói rất thường nữa - lựa một người như vậy là bạn phải chịu đựng một ông già mệt mỏi về thể chất và tinh thần, ý kiến hẹp hòi và không muốn bỏ lối làm việc cũ của mình. Đa số họ là những người hẹp hòi, cố chấp, không chịu nhìn rộng ra chung quanh, không có tinh thần ứng biến và do đó không thể đối phó với tình thế mới trong một thế giới luôn luôn thay đổi.
Muốn mở một xí nghiệp mới thì phương pháp thích nghi nhất là lựa những người mới, muốn vậy phải giỏi tâm lí, biết bản tính con người. Những người mới đó, có tài năng, sẽ học nghề và sẽ mau có kinh nghiệm. Trước hết phải biết mình cần những đức nào ở người mình sẽ giao việc, rồi mới tìm những người có những đức đó, những đức chưa được đem thi thố nhưng chỉ đợi có dịp là phát triển. Nếu người bạn lựa thực sự có những đức đó thì bạn có thể chắc chắn rằng bạn là một người sung sướng và mọi việc sẽ xảy ra như ý muốn của bạn.
Những người như vậy sẽ biết nắm lấy mọi cơ hội thuận thiện. Họ có ích cho xã hội.
“Sung sướng thay kẻ nào tìm thấy sức mạnh ở lòng tin mà tấm lòng hợp với chí hướng của anh. Đi qua cái thung lũng đau khổ này, kẻ đó sẽ đào một cái giếng và các hồ sẽ đầy nước”.
(Còn tiếp)

Tay trắng làm nên (Chương 5:Đọc Sách)

Chương 5
Đọc Sách

Tôi muốn nhắc những bạn trẻ phàn nàn hồi nhỏ học hành dở dang rằng sự học ta đã hấp thụ được, dù nó thô sơ tới đâu nữa, cũng không thể làm trở ngại cho sự thành công của ta được.
Thế kỷ mười chín đã quá đề cao kiến thức, tôn sùng kiến thức. Những nhà trí thức siêu quần thời đó cho rằng kiến thức có ảnh hưởng lớn nhất trong đời sống. Mà thực ra, một nền giáo dục tiếp thu được của người khác có thể bất tiện cho ta hơn là có lợi. Một thanh niên xông vào đời đừng nên mắc cỡ rằng không có bằng cấp đại học trong tay.
Đành rằng sự đào tạo thanh niên trong các ngôi trường khả kính đó, cũng có giá trị chứ không phải không, nhưng phải là người có óc tìm tòi mới tránh được nguy hại lớn lao của nền giáo dục đại học: nguy hại đó làm cho thanh niên đang ở tuổi mà đầu óc rất dễ bị ảnh hưởng, chỉ tôn trọng, mê say mỗi một phương diện của tri thức mà khinh bỉ tất cả những phương diện khác.
Thực ra, có kiến thức là nhờ có tư cách, mà thành công không phải là nhờ có kiến thức. Điều quan trọng là một người phải tự ý muốn học hỏi thêm vì như vậy sự hiểu biết mới thực là của mình.
Đành rằng một em bé hoặc một thiếu niên phải nhờ thầy chỉ bảo cho tất cả những điều mình có thể học được. Tôi nhìn nhận giá trị của nền giáo dục đại học theo lối cổ và tôi còn khuyên các bạn trẻ nên tiếp thu nó nữa. Hồi còn đi học những bạn nào có tinh thần, có cao vọng, có óc mạo hiểm có thể nắm lấy tất cả các cơ hội học hỏi thêm. Nhưng nếu bạn nào khó ghi nhớ được những lời giáo sư ngồi từ trên bục cao truyền xuống như truyền một giáo điều thì bạn đó cũng đừng nên vội thất vọng. Trái lại, có thể còn lấy làm vinh hạnh rằng có nhiều danh nhân cũng như mình, chẳng hạn ông Churchill, một vĩ nhân của Anh, hồi nhỏ chẳng đã làm cho thầy giáo thất vọng đấy ư?
Sự giáo dục của tôi thô thiển lắm. Một người thời nay khó mà tưởng tượng được đời sống trong làng Newcastle vào khoảng 1880. Chỉ có vài khoảnh nhỏ là trồng trọt được, bốn bề là rừng hoang, một con sông rộng mênh mông chảy qua. Suốt nửa năm, mặt đất phủ băng và tuyết, và con sông Miramichi cuốn những tảng băng ra tới tận ngoài vàm. “ở đây mưa chỉ như bụi trắng mà biển thì không khác gì đá xanh”. Vào cái mùa đó và trong những điều kiện như vậy, tất nhiên sự học không được đều đặn, buổi học buổi nghỉ.
Cho nên, ít khi tôi được thầy dạy, nhờ đọc sách và tiếp xúc với người khác mà tôi có được chút kiến thức. Chính sự đọc sách mới là cái nguồn của kiến thức. Điều quan trọng là đọc những sách mình thích đọc chứ không phải là đọc những sách người khác khuyên mình nên đọc. Đọc sách chỉ có lợi khi nào những điều trong sách thâm nhập vào trí óc ta được. Phải đọc nhiều, đọc đủ loại, như một người có bao tử bằng thép, nuốt cái gì vào cũng tiêu hóa được hết.
Bất kỳ người nào, dù trí óc bình thường, cũng có thể tự luyện cho mình một khả năng lựa chọn sách, nghĩa là luyện cái giám thức. Có những cuốn phải liệng vào sọt rác, có những cuốn nên giữ kĩ để đọc lại, sự lựa chọn loại sách tuỳ mỗi người.
Khi một người đã thích một loại sách nào hợp với mình thì là người đó đã có giám thức rồi mà tự mình không hay, và tất nhiên chẳng cần ai bắt buộc, người đó sẽ tìm tất cả loại sách ấy để đọc.
Có vài môn học và nhiều thanh niên cho là cần thiết để thành công trong công việc kinh doanh. Trước hết là môn toán rồi tới môn ngoại ngữ. Môn toán cao học không thực là cần thiết cho sự thành công, nhưng có điều những người nắm vững môn toán cũng chính là những thành công trong lĩnh vực kĩ nghệ và tài chính.
Tôi tiếc rằng tôi đã được đào tạo trong nghề kinh doanh tại một lục địa mà trong sự giao thiệp trên thương trường, người ta chỉ dùng mỗi một ngôn ngữ từ Bắc cực tới vịnh Mexico. Thành thử tôi mù tịt về những sinh ngữ khác.
Tôi cho rằng sinh ngữ là môn quan trọng nhất cần phải biết để thành công trong việc kinh doanh, nhưng ý kiến của tôi có thể sai vì tôi không biết chút gì về sinh ngữ, như tôi đã nói.
Nhưng suy đi tính lại thì thị trường mới thực là trường đào tạo nhà kinh doanh. ở đó, một thanh niên có lương thức có thể tìm hiểu cá tính của các hạng người và nhờ vậy tự lập được một cái thang giá trị trong giới kinh doanh.
Kinh nghiệm sẽ cho thanh niên đó thấy rằng không phải vì thiếu những tri thức về lí thuyết mà người ta thất bại trong cuộc mạo hiểm là đời sống đâu.
Cách đây đã lâu, Huân tước Bickenhead hỏi tôi định cho các con trai tôi học trường nào. Tôi đáp rằng chưa hề nghĩ mà cũng không quan tâm tới vấn đề đó. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên vô cùng.
Nguyên nhân chính của sự thờ ơ đó là tôi thầm tính rằng trẻ phải làm chủ vận mệnh của nó và chỉ có nó mới làm chủ vận mệnh của nó thôi. Nếu nó muốn thành công trong ngành văn học hoặc trong một ngành nào khác thì nó cứ đọc sách, đọc cho thật nhiều, cho tới khi óc mở mang đủ phân biệt được cái xấu và tốt, cũng như một người sành rượu chỉ nhìn qua một thứ rượu nào đó cũng nhận được là rượu ngon hay không.
Có thể rằng người đọc sách và người uống rượu chỉ dùng trực giác mà nhận định được sách này hay, rượu này ngon chứ không đưa ra được một lí lẽ khách quan nào. Nhưng không phải vì vậy mà sự phán đoán của họ sai. Khi họ bảo “Cuốn sách đó viết hay”, “Thứ rượu này dở” thì ta có thể tin họ được.
Cho nên tôi muốn khuyến khích những thanh niên không có bằng cấp trung học hay đại học quyết chí thành công trong việc kinh doanh. Theo tôi nghĩ, có một cái nguy hại là học đường thường đào tạo một hạng thanh niên “tiêu chuẩn”. Một người có cá tính mạnh mẽ phải biết tự đào tạo lấy chứ không trông mong nhiều ở học đường. Rất có thể rằng tới lúc hành động, hạng người có cá tính mạnh mẽ thắng hạng người “tiêu chuẩn”.
Muốn có một bút pháp thì chỉ có cách đọc sách cho nhiều, đọc những sách mình thích. Muốn sành rượu thì không có gì bằng nếm thật nhiều thứ. Không có gì tập cho ta quen công việc kinh doanh bằng cách thực hành nó, thực hành ngay từ hồi trẻ, nửa vì thích, nửa vì muốn có kinh nghiệm.
Con người tạo ra vận mệnh của mình chứ không phải là để cho nó lôi cuốn. Vậy ta có thể thắng nền giáo dục ta đã hấp thụ được. Ta phải tự đào tạo lấy ta.
Thiếu những lí thuyết căn bản thì vẫn có thể tiến trên đường đời được. Thanh niên nào cũng có cơ hội để làm nên sự nghiệp miễn là chịu quyết chí làm việc, dành dụm một số vốn, sống điều độ, tránh thói ngạo mạn và thói sợ sệt, can đảm đương đầu với các cuộc khủng hoảng, không hề sờn lòng. Lại phải biết thận trọng khi cất cánh bay bổng, dù có là một thiên tài thì cũng không được trái những luật an toàn.
Bí quyết để tạo nên quyền lực là biến nhiệt tâm hồi trẻ thành kinh nghiệm và kiến thức. Tôi đã chỉ cho bạn một con đường tắt để thực hiện điều đó. Tôi đã trải qua tuổi trẻ. Bây giờ tôi đã có kinh nghiệm. Tôi tin rằng thanh niên có thể đạt nguyện vọng của mình được nếu nhiệt liệt muốn thành công. Tôi cũng tin rằng chỉ cần một chút kinh nghiệm buổi đầu là tránh được những vực thẳm mà những kẻ táo bạo nhất thường gặp trên con đường kinh doanh của mình.
Do kinh nghiệm bản thân mà tôi tin chắc những điều tôi mới biết đó.
(Còn tiếp)

Tay trắng làm nên (Chương 4:Làm Sao Trừ Được Tính Sợ Sệt)

Chương 4
Làm Sao Trừ Được Tính Sợ Sệt

Không có đức can đảm, thì không ai có thể đi xa trên con đường thành công được.
ở đây tôi không muốn nói tới sự can đảm về thể chất của các dũng sĩ trên chiến trường, mà tôi muốn nói về một đức hiếm có hơn, đức can đảm về tinh thần.
Đức này khác hẳn tính bướng bỉnh, cố chấp vì bướng bỉnh, cố chấp nhiều khi chỉ là hình thức của thói hèn nhát. Biết bao sự nhu nhược do thói bướng bỉnh mà ra.
Có những kẻ cố bám một cách tuyệt vọng vào một công việc làm ăn nào đó với hi vọng điên cuồng rằng, nhờ Trời Phật phù hộ, thất bại sẽ đột nhiên chuyển thành thắng lợi. Họ hi vọng hão huyền sẽ có những ngày tươi đẹp hơn, mà chính trí óc họ bảo họ rằng những ngày đó không khi nào tới đâu.
Thái độ đó không phải là can đảm, cũng không phải là bướng bỉnh; nói thẳng ra, nó là thái độ ngu xuẩn. Khi lí trí ra lệnh cho ta bỏ một trận tuyến nào đi để bắt đầu lại một vị trí khác, mà ta cứ ương ngạnh không chịu nghe thì không phải là ta có tinh thần can đảm mà chính là ta nhút nhát về trí tuệ đó.
Không thể tách rời sự can đảm và lương thức được. Nhưng một mặt khác, quá mau mắn chịu dung hòa, cũng có thể là nhút nhát đấy. Một người có tinh thần đó cho rằng có ít mà chắc chắn còn hơn là mạo hiểm để có nhiều.
Muốn thành công trong sự thương lượng các việc làm ăn lớn thì phải biết theo dõi cho hợp lúc sự biến chuyển của mọi việc, sự thay đổi của tình hình cùng quan điểm mỗi người, bạn cũng như thù. Muốn làm ăn lớn, phải tránh xa những quan điểm cứng ngắc của hạng người giữ đúng chủ nghĩa, nguyên tắc. óc ta phải khoáng đạt, uyển chuyển, dễ tiếp thu những quan điểm mới, những ý kiến khác ta.
Nhưng đức đó của nhà kinh doanh, một đức hợp với tính tình của nghệ sĩ, có thể biến tướng mà thành nhu thuận, ai bảo sao nghe vậy. Lúc đó ta sẽ hóa ra nhu nhược, không bao giờ dám chiến đấu nữa, luôn luôn tìm cách thỏa thuận với đối phương để lượm những miếng vụn, đồ thừa người ta thí cho.
Mỗi khi qua một giai đoạn mới trong công việc làm ăn thì thấy con đường mòn dễ đi vẫn thích thú hơn, mà con đường leo sườn đồi gồ ghề hơn, khó đi hơn. Nếu ta cứ theo thói quen, lựa con đường dễ đi thì óc ta không tiến mà tinh thần ta suy dần.
Có một lần tôi phải khó khăn lựa chọn: một là giữ vững cái thế của tôi, hai là dung hòa. Hồi đó tôi còn trẻ và phải thành lập công ty ximăng Canađa. Người muốn bán lại một cơ sở cho công ty đòi một giá quá cao. Rõ ràng là ông ta ra giá quá cao như vậy chỉ để có đủ tiền trả nợ thôi. Viên chủ tịch giám đốc cơ sở giao thiệp với các nhóm tài chính có thế lực nhất ở Canađa. Một thanh niên như tôi hồi đó mà được lòng các ông bự ấy thì mau phát lắm, trái lại nếu bị các ông đó ghét, thì sự nghiệp nhỏ nhoi của tôi sẽ sụp đổ liền. Mua theo cái giá cao đó, không có hại lớn gì cho tôi cả, nhưng có hại cho người có phần hùn trong công ty.
Nhận bao giờ cũng dễ dàng hơn từ chối. Nhất là người ta dùng mọi áp lực để buộc tôi phải mua lại cơ sở với giá người ta đưa ra. Tôi từ chối. Tức thì kẻ thù của tôi dùng mọi phương tiện mạnh mẽ vô cùng để gây ảnh hưởng xấu tới dư luận mà tấn công tôi. Họ điều khiển chiến dịch rất khéo léo. Trước kia họ cố thuyết phục tôi để tôi lừa gạt những người có phần hùn thì bây giờ lại chính họ xúi giục những người có phần hùn đó tố cáo, mạt sát tôi là đã thành lập một công ty tổ hợp.
Bây giờ tôi già rồi, có thể thú thực rằng hồi trẻ bị tấn công một cách bất công như vậy tôi đau xót lắm. Nhưng tôi không ân hận gì cả. Tại sao? Tại nhờ những lời chỉ trích đầu tiên tàn nhẫn đó mà tôi hiểu đời hơn và về sau, giữ được một thái độ hoàn toàn thản nhiên trước mọi sự tấn công độc địa.
Lại thêm, chút tia sáng le lói ở trong óc tôi cho tôi hiểu rằng nếu lần đó tôi đã chịu nhường trước áp lực của họ thì tôi sẽ có cảm giác là chịu đầu hàng về tinh thần mà sức mạnh hoạt động của tôi trong việc kinh doanh chắc chắn thế nào cũng giảm sút. Tôi sẽ do thói quen mà thành thông thạo chứ không dùng lí trí nữa và sẽ mất hết nghị lực tinh thần, vì chỉ có chiến đấu mới có được nghị lực.
Người thanh niên nào bước vào lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ có lúc gặp cuộc khủng hoảng như vậy, nó làm cho nghề của mình nghiêng về phía này hay phía khác, làm cho thuật thương thuyết từ trước của mình đổi mới hẳn.
Bạn sẽ hỏi tôi: “Nhưng tôi không hiểu ý ông muốn khuyên tôi điều gì. Ông bảo tôi phải có chừng, đừng quá cương quyết, cố chấp rồi đồng thời ông lại nhắc tôi đừng có thái độ thỏa hiệp, thế là nghĩa làm sao?”
Đó là câu hỏi từ xưa người ta vẫn thường đặt ra: làm sao có thể dung hòa thái độ cương quyết và thái độ thích ứng với hoàn cảnh. Chỉ có mỗi một cách trả lời là phải luyện cả hai đức đó. Phải hành động tuỳ theo hoàn cảnh chung quanh mà vẫn trung thực với chính mình, cố giữ đường lối của mình.
Có gặp một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đặc biệt mới phải đương đầu với sự thử thách chủ yếu đó. Lúc đó phải xét kĩ vấn đề tuỳ theo sự quan trọng của nó, và quyết định của ta sẽ ảnh hưởng tới tương lai trong nghề của ta.
Nhưng tôi nghĩ cần khuyên bạn ở đây một lời thực tế. Đừng nóng nảy, đừng doạ dẫm; trong việc kinh doanh, đừng bao giờ có thái độ ấy. Người nào làm ăn lớn thì thế nào cũng có lúc gặp một tình trạng bối rối. Lúc đó cần nhất là phải can đảm về tinh thần. Hễ đại đởm thì sẽ có cái đà để tăng năng lực của mình lên và làm giảm năng lực của những kẻ cạnh tranh với mình.
Bạn có thể chắc chắn rằng trong đời làm ăn, bạn sẽ nhiều lần gặp cảnh bối rối về tài chính. Chúng ta ở trong một thời kinh tế đã thịnh vượng và phát triển từ lâu, thế nào rồi cũng thay đổi, sẽ tới hồi kinh tế suy sụp làm điên đảo giới kinh doanh.
Muốn đương đầu với một cuộc khủng hoảng như vậy, trước hết phải xét kĩ mọi sự kiện rồi để ý tới những sự thẩm định sai lầm của người khác. Trong các trường hợp đặc biệt, người nào có trí óc uyển chuyển, lanh lợi sẽ không lúng túng vì biết tạo ra những khí giới và phương tiện để thích ứng với mọi giai đoạn của tình thế.
Người khôn, biết quyền biến, gặp một tình thế bất thường thì hành động một cách bất thường.
Nhưng xét cho kĩ thì những thời khủng hoảng ít khi xảy ra lắm. Cái nguy cơ thường xuyên chính là những cuộc khủng hoảng tinh thần của chính ta. Nếu ta không biết nhìn vào phía sau cái vẻ mặt bề ngoài của người khác trong khi họ làm việc thì không làm sao ta hiểu được tại sao có nhiều người thao thức suốt đêm, lo sợ những tai nạn tưởng tượng có lẽ không bao giờ xảy ra.
Những người đó không biết giữ sự bình tĩnh, họ thiếu một thứ can đảm nào đó thành thử bị óc tưởng tượng của chính mình quấy phá. Chính hạng người đó vội vàng bán tháo những món rất tốt vì họ không đủ can đảm để giữ giá, thành thử làm lợi cho người mua. Người mua không đáng trách mà người bán thì đáng thương. Người nào đó can đảm hành động theo óc lí luận của mình thì nhất định sẽ thắng.
Làm sao trừ được trong óc ta cái sợ sệt không có đối tượng - cái sợ sệt một phần ở tiềm thức, một phần ở ý thức - day dứt ta đó?
Chỉ có cách cố ý gắng sức dùng nghị lực và trí tuệ mới diệt được nó. Tôi chỉ có thể mách bạn được một phương thuốc. Khi hiện tại làm cho bạn lo âu, thì bạn nhớ lại những lúc lo lắng nhất đã qua. Như vậy, óc bạn không phải chỉ bị một nỗi sợ sệt mà bị tới hai nỗi sợ sệt xâm chiếm, mà nỗi sợ sệt hồi trước mạnh hơn sẽ lấn nỗi sợ sệt hiện nay.
Bạn sẽ tự phụ: “Không có gì ghê gớm hơn cuộc khủng hoảng thời đó mà mình cũng đã thắng nổi và chẳng làm sao cả. Vậy thì có lí gì mình không vượt nổi tình thế hiện nay, kém gay go, kém nguy hiểm hơn xưa nhiều”. Nhờ cách đó mà ta rèn được một nghị lực thắng nổi mọi trở ngại.
Người nào chống được những cuộc khủng hoảng nội tâm đó sẽ không còn ngại gì dông tố ở ngoài đời.
Người can đảm không bỏ lỡ một cơ hội nào cả. Đức can đảm cũng như tài trí, có thể phát triển tới cực độ nếu cơ thể ta khoẻ mạnh.
Tôi đã nói rằng sự can đảm về tinh thần hiếm hơn sự can đảm về thể chất. Nó quá hiếm, cực kỳ hiếm nữa. Người có can đảm giữ vững ý kiến của mình là một biệt lệ chứ không phải là một thông lệ.
Người ta thường cho rằng tính táo bạo, dám đưa ra một lời phán đoán dứt khoát, thường làm hại cho ta, ta nên nịnh hót, a dua, chiều đời, nếu thấy ý kiến của mình không được người khác tha thứ, chấp nhận thì, đừng tuyên bố ra, như vậy có lợi hơn.
Lời đó có đúng không? Tôi sẽ trả lời dứt khoát rằng thà chịu nghèo còn hơn là thành công mà mất tư cách con người.
Tôi không chấp nhận rằng tinh thần nô lệ, ti tiện cần thiết trong công việc kinh doanh. Không bao giờ nó đưa tới một sự thành công thực sự cả. Cương quyết nhưng không ương ngạnh, vui tính nhưng không kỳ khôi, mềm mỏng nhưng không nhu nhược, có tinh thần kinh doanh nhưng không hấp tấp, lộn xộn, đó là những đức nó cứu ta khi gặp vận rủi.
(Còn tiếp)

Tay trắng làm nên (Chương 3:Coi Chừng Các Thành Kiến !)

Chương 3
Coi Chừng Các Thành Kiến !


Trong thế giới hiện đại, muốn thành công lâu bền thì phải biết sống điều độ. Các nhà hoạt động đều biết rằng hi sinh sức khoẻ tức là hi sinh tuổi thọ của mình, mà mỗi năm có một giá trị lớn trong đời sống của ta. Cho nên họ biết tự vệ, không để kẻ thù tấn công.
Sự can đảm về tinh thần một phần do trí óc mà một phần cũng do bao tử. Thiếu sự can đảm đó, nhà kinh doanh chỉ là hạng rất tầm thường. Cho nên sự điều độ là một trong những bí quyết để thành công.
Trước hết, tôi nhiệt liệt khuyên những thanh niên có cao vọng nên ít uống rượu. Tôi không muốn rằng luật pháp quy định phong tục, nhưng điều tôi nói đây không phải vô căn cứ đâu; không một người nào có thể thành công lớn được nếu mang cái tật rượu chè be bét; nhưng một nhà kinh doanh mà gia nhập hội chống uống rượu thì cũng khó thành công được.
Xã hội hiện đại phức tạp buộc chúng ta phải biết điều độ. Khoa học tiên tiến đem lại những điều kiện sống với nhiều phương tiện dành cho con người. Chúng ta không thể từ chối những tiện nghi đó.
Con người vừa làm chủ vừa là nô lệ những máy móc mình dùng như điện tín, điện thoại, máy ghi âm. Trong cảnh ồn ào bất tận ở nơi làm việc, muốn giữ cho sự phán đoán được sáng suốt, thần kinh được thăng bằng, tinh thần được thảnh thơi thì phải biết tự chủ, nghĩa là tự kiểm soát được mình và sống có điều độ. Đó là cái giá mà ta phải trả cho khoa học.
Tôi cũng tha thiết xin thanh niên phải kiểm soát và điều tiết thái độ, cử chỉ, ngôn ngữ và công việc của mình nữa. Nhất là phải tránh thái độ ngạo mạn vênh váo.
Thái độ đó phát sinh ra sao? Ban đầu, một thanh niên nhờ hoạt động mà bắt đầu có địa vị trong xã hội rồi có vẻ coi thường những người khác. Thế là đã khởi sự xuống một cái dốc nguy hiểm rồi đấy.
Thái độ đó không phải là thói tự đắc, vì tự đắc là tự đánh giá một cách đúng hay sai quyền hành cùng trách nhiệm của mình; cũng không phải là thói tự đại, tự phụ vì tự đại tự phụ là tự cho mình những đức mà mình không có.
Thái độ ngạo mạn, vênh váo còn nguy hiểm hơn những tật đó nhiều. Nó là cảm giác cho rằng chỉ mình mới có tài năng, còn chung quanh toàn là những kẻ ngu ngốc, vậy thì chỉ cần làm theo ý mình, bất tất phải quan tâm tới quyền lợi, cảm xúc của kẻ khác: họ buồn, giận, mủi lòng cũng mặc họ. Hồi trẻ ta thành công mà chỉ làm thương tổn lòng tự ái của một người thôi, thì tới tuổi xế bóng ta sẽ có cả trăm kẻ thù bất động đái thiên với ta đấy.
Họ sẽ đem những lỗi nhỏ lỗi lớn của ta, từ những lỗi thiếu tế nhị, giám thức, lỗi quen áp chế, tới lỗi diệt thần tượng cũ để dựng thần tượng mới, mà tấn công ta.
Trong lúc hăng hái tranh đấu cho công việc làm ăn, ta không để ý tới những cái đó, cũng như trên chiến trường, hăng tiết chém giết nhau, người ta không để ý tới vết thương của địch. Nhưng rồi kẻ bại trận nhớ lại hết và uất hận ngấm ngầm về thái độ ngạo mạn của kẻ đã thắng mình.
Nhiều năm trôi qua, khi mà có vẻ như mọi sự đều đã rơi vào lãng quên, chính kẻ thắng cũng chỉ còn lờ mờ nhớ những chuyện trước kia, thì thình lình bị một kẻ mình tưởng là thân thiện với mình, đập mình một cách bất ngờ.
Như bị kẻ ném đá sau lưng, người đó lảo đảo, la lên: “Tại sao hắn bỗng xuất hiện từ bóng tối để đánh tôi? Tôi có làm gì hắn đâu?” Rồi cố tìm trong dĩ vãng, mới sực nhớ ra rằng, đã từ lâu lắm mình có lần tỏ ra ngạo mạn - lúc trẻ mình tự cho là có quyền như vậy - và bây giờ, về già, phải trả giá cho những lỗi lẫm của mình hồi trẻ.
Một số thành kiến cũng là dấu hiệu của tinh thần thiếu điều độ. Thói có thành kiến còn tai hại hơn thói ngạo mạn, vì thói ngạo mạn chỉ xuất hiện sau khi mình đã thành công ít nhiều rồi, và như vậy còn có chút lí do, chứ thói có thành kiến thì chẳng đợi khi đã thành công rồi mới có. Thói quen thành kiến cơ hồ như do di truyền, do lây những người chung quanh mà ta mắc cái tật đó nặng từ hồi nhỏ; muốn diệt được nó phải trải đời và nhận định cho đúng rồi cương quyết tự cải. Vì vậy óc thành kiến là một tật rất lớn. ảnh hưởng của nó còn tai hại hơn tất cả những tật khác nữa.
Nó có tính cách phá hoại óc phán đoán của ta, làm cho óc ta hóa hẹp hòi. Diệt được nó thì cũng như gỡ được một cái gông cùm ghê gớm cho tâm hồn ta.
Không diệt được nó thì nó có thể mỗi ngày mỗi cứng mạnh lên và biến thành tật bướng bỉnh mà không có gì nguy hiểm bằng định kiến. Không có gì ngốc bằng tuyên bố: “Ông muốn nói gì cứ nói, ý tôi đã định, không bao giờ tôi đổi ý đâu”. Thường thường người ta đưa lí lẽ đó ra để che đậy một sự thất bại rõ rệt của mình.
Con người bướng bỉnh đâu có nhìn thấy được sự thực. Họ không để ý tới biến cố, lịch sử, thời đại, không để ý tới người ngoài đường. Con người có định kiến luôn luôn chỉ dùng mỗi một tiêu chuẩn để xét tất cả những biến chuyển trên thế giới, hoàn cảnh trong vũ trụ.
Người nào thành công thì không có định kiến, mà biết tuỳ theo cảnh, sửa đổi ý kiến của mình, nhờ có một lương thức luôn luôn tỉnh táo.
(Còn tiếp)

Tay trắng làm nên (Chương 2:Cần Phải Gây Vốn)

Chương 2
Cần Phải Gây Vốn

Người ta bảo rằng tiền bạc là nguồn gốc của mọi điều xấu xa, tội lỗi. Câu nói đó không đúng. Nếu đôi khi tiền bạc dùng vào những mục đích xấu thì không phải tiền bạc đáng trách mà kẻ dùng nó mới là đáng trách. Có người cho tôi là tuyên truyền cho chủ nghĩa duy vật triệt để. Nghĩ vậy là sai. Tôi hoàn toàn công nhận rằng có những giá trị khác ngoài giá trị tiền bạc. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm lại đánh mất giá trị của bản thân khi tác phẩm ấy mang lại cho anh ta một khoản tiền lớn.
Gần đây, những người kiếm được tiền thường bị thiên hạ nghi ngờ một cách bất công, mà những kẻ nghi ngờ lại chính là những ông những bà nếu có cơ hội thì sẽ làm tiền mạnh hơn ai hết. Trúng số thì người ta cho là một điều tự nhiên, mà tạo được một sản nghiệp bằng mồ hôi nước mắt, rồi nhờ có sản nghiệp mà giúp cho hàng ngàn người có công ăn việc làm, được sung sướng thì lại bị các chính khách và các nhà báo mạt sát là đáng đầy xuống địa ngục. Tôi cho đó là thái độ ghen ghét độc ác của những con người xấu xa.
Người ta đã nói và viết nhiều điều giả nhân giả nghĩa về tiền bạc. Nhưng chúng ta không nên quên rằng nếu làm giàu một cách bất lương là điều đáng chê thì sự nghèo khổ cũng không luôn luôn là đáng khen.
Nói cho đúng, có hai thứ giá trị đi đôi với tiền bạc: một là giá trị của những phẩm chất cần có khi đang kiếm tiền; hai là giá trị của cách sử dụng đồng tiền kiếm được như một công cụ thể hiện sức mạnh của người có tiền.
Nghệ thuật kiếm tiền cần sự quả quyết, tập trung, dành dụm, tự chủ; những yếu tố đó chính là nguyên động lực của thành công và hạnh phúc. Một người đã biết tự chủ khi kiếm tiền thì tới khi có tiền, cách sử dụng đồng tiền cũng tạo cho người đó một sức mạnh, để có thể làm chủ được hoàn cảnh.
Trừ hai đặc tính đó ra - luyện tư cách và tạo nên sức mạnh - tiền bạc có ít giá trị lắm. Tội nó cũng ngang với công của nó. Chính vì vậy mà một người biết làm chủ của cải của mình ít khi nghĩ tới việc để lại một gia tài đồ sộ cho con cháu. Người đó biết rõ rằng phải để cho con cái tự tôi luyện trong khó khăn, không được hưởng chút di sản nào ngoài óc thông minh và tư cách, thì chúng mới thành những con người có giá trị được.
Theo Mahomel thì Thượng Đế luôn lựa những nhà tiên tri của Ngài ở trong đám thường dân. Vả chăng ai cũng biết rằng giàu sang mà không minh triết thì thường khi chỉ có hại cho thể chất hoặc tinh thần. Những thanh niên gia đình giàu có, vì ăn ngon mặc đẹp, được hưởng mọi sự dễ dãi mà dễ chết yểu.
Cho nên tiền của sở dĩ có giá trị chỉ là do nó bắt ta phải gắng sức, khó nhọc để kiếm nó rồi biết cách dùng nó. Vậy dự tính làm giàu là điều đáng khen, nhưng thực hiện nó cách nào đây? Tôi xin trình bày vài quy tắc rõ rệt để dìu dắt một thanh niên từ hai bàn tay trắng mà gây dựng được một gia sản lớn lao.
1 - Chiếc chìa khoá mở cửa thành công cho ta là bản năng thương mại, tức cái bản năng nhận định được một cách tự nhiên, tức thì, khỏi phải suy luận, giá trị thực của bất kỳ một món hàng nào. Người nào không cảm thấy được cái đó thì không thể kinh doanh được. Nhưng nếu có sẵn cái mẫn cảm ấy, dù là mơ hồ, yếu ớt, thì cũng có thể luyện nó từ lúc còn được - tức là ở cái tuổi mà tinh thần rất dễ uốn nắn - và dần dần làm cho nó phát triển mạnh mẽ, tới khi nó thành như bản tính thứ nhì của mình. Thanh niên nào chịu khó cải thiện khả năng đó trong mọi cơ hội, chú ý quan sát thu nhận thông tin để nâng cao óc phán đoán, nhận định của mình thì thế nào cũng tiến bộ trên con đường kinh doanh.
2 - Nhưng một thanh niên dù đã có tài nhận định đúng giá trị của mọi vật rồi, mà không biết tính toán, quản lí tài chính thì cũng có thể đi tới sự sụp đổ trước khi tài năng của mình đem lại kết quả. Muốn chinh phục thương trường thì phải biết tính xem lãi hay lỗ, và có thấy lãi thì mới bắt đầu xông pha. Rất nhiều người mất thì giờ dự tính những số lãi về sau này, những số lãi không khi nào tới hoặc có tới thì tới tay người khác. Điều quan trọng nhất là đừng bỏ dở một công việc làm ăn nào khi chưa hoàn toàn thành công. Biết điều khiển cho khéo một công việc nhỏ thôi cũng là có đủ tư cách để thắng những trở ngại sau này sẽ gặp trong những việc kinh doanh lớn hơn rồi.
Thường thường người ta nhận thấy rằng những người tạo được những gia sản lớn đều luôn luôn chuyên vào một ngành. Đừng có thói no bụng đói con mắt. Cần nhớ nguyên tắc chính yếu đó. Nhiều thanh niên có tương lai rực rỡ mà vấp té chỉ vì không theo nguyên tắc rất giản dị đó. Vì tham lam người ta dễ đâm bổ vào những cuộc kinh doanh lớn lao trong khi người ta chưa sẵn sàng, thiếu phương tiện, thiếu kinh nghiệm. Tập nhận định đúng giá trị của sự vật, biết tính toán, quản lí tài chính, biết đọc ý nghĩ của người khác; đó, phải luyện cho thành thục, hoàn hảo những khả năng đó đã rồi mới dùng nó vào những công việc kinh doanh lớn được. Những khả năng đó chỉ là ba hình thức của điều kiện quan trọng nhất: biết phán đoán cho đúng, mà hễ phán đoán đúng, tức thị là thành công.
Vì vậy điều quan trọng và khó khăn là gây được số vốn đầu tiên là một triệu đồng. Có được triệu đầu tiên rồi thì dễ kiếm được những triệu sau lắm. Triệu đầu tiên đó định rõ tư cách của ta và bảo đảm cho sự thành công của ta.
Phải dùng sức mạnh và tuổi trẻ của ta vào cuộc chiến đấu đầu tiên đó. Người nào muốn thành nhà đại doanh nghiệp thì phải dồn hết tâm tư vào cuộc chiến đấu đó, phải cảm xúc mãnh liệt tới tận đáy lòng như một nghệ sĩ hoài bão nghệ phẩm của mình vậy.
Có được một triệu đồng trong túi rồi, người ta tiến trên đường đời với vẻ ung dung tự tại hơn, thấy công việc làm ăn nào cũng vừa với sức của ta. Người ta tự tin, có thể phác hoạ những nét lớn của chương trình vì đã quen thuộc với các chi tiết rồi. Nắm vững được thuật đó thì không có gì ngăn cản nổi bước tiến của ta nữa. Cuộc đời làm ăn của các nhà đại kinh doanh đều như vậy hết.
Tuy nhiên, một người áp dụng những quy tắc đó mà tạo dựng nên một gia sản nào đó vẫn có thể không hoàn toàn thành công và tìm đưọc hạnh phúc. Có thể người đó không nhận ra rằng những đức trong buổi gây dựng sự nghiệp không phải là những đức cần cho ta một khi đã thành công. Khi đã thành công thì không cần tinh thần mạo hiểm nữa mà cần nhận định được trách nhiệm xã hội của mình.
Tiền bạc đào tạo tư cách của ta vì phải chịu cực chịu khổ, phải chiến đấu mới kiếm được nó. Nó là thước đo tư cách và tinh thần con người. Trong thế giới hiện đại, người có nhiều tiền thường là người có tinh thần phán đoán, quyết định nhanh nhạy. Tại sao vậy? Tại phải tranh đua gay go, người đông mà của hiếm. Không kể các bậc thiên tài - vì mỗi thế kỷ chỉ có một, hai hoặc ba vị tài ba rực rỡ - cứ xét hạng người thường như chúng ta thôi, thì muốn tự tạo được một địa vị rất danh giá trên chính trường, không cần nhiều đức quý bằng muốn thành công trong ngành kĩ nghệ và tài chính. Không một chính khách nào công nhận điều này, mặc dầu nó rất đúng. Một số người có tài làm cho người khác chăm chú nghe mình. Thành công trong đám đông, biết bàn bạc công việc, lời lẽ hùng hồn, khéo léo, nhưng không thể đem thực hành những ý kiến của mình được vì thiếu ý thức về sự hành động. Họ thành công trong công việc quản lí chứ không thành công trong việc kinh doanh. Lại có trường hợp ngược lại. Ta thường thấy trong phòng giấy có những người không thể trình bày khéo léo một vấn đề. Bắt họ trình bày thì họ vụng về, nói năng khó khăn, lúng túng. Nhưng đặt họ vào một địa vị cần hành động thì họ trổ tài liền. Họ chiến đấu với vấn đề và chứng minh rằng gặp lúc khủng hoảng, ta có thể tin cậy ở họ được. Trong công việc kinh doanh, một người hoạt động phụ lực ta còn mạnh hơn cả một đám kẻ mồm mép. Trên những thị trường lớn của thế giới, cuộc chiến đấu thật gay go, đường gươm lưỡi kiếm thật lợi hại; người ta phải quay lưng vào vực thẳm mà chống đỡ, thua thì tiêu tan sự nghiệp và cả danh dự nữa. Thanh niên nào đã bước vào đấu trường đó phải cố tự lực mà thắng, đừng trông mong một ân huệ nào cả. Nhưng tuổi thanh xuân có thể thắng được lắm. Vì đầu óc còn dễ uốn nắn nên họ có thể cương quyết luyện khả năng phán đoán bằng cách rút bài học từ kinh nghiệm. Cho nên tôi muốn khuyên thanh niên ngày nay rằng, theo ý tôi, tiền bạc chỉ là kết quả của chí cương quyết và óc thông minh khéo áp dụng vào công việc làm ăn. Định mệnh không thể ngăn cản bước đường của một người có tinh thần quả cảm
(Còn tiếp)

Tay trắng làm nên (Chương 1: Cách dùng chìa khóa số I)

Chương 1
Cách Dùng Chìa Khóa Số I

Viết cuốn này tôi muốn cho độc giả thấy rằng ba điều kiện căn bản cho sự thành công là có lương thức, ham hoạt động và sức khoẻ.
Nếu chỉ có hai trong ba điều kiện đó thôi thì cũng có thể đi khá xa được; nhưng phải có đủ cả ba mới tiến xa, xa lắm được.
Có ngoại lệ nào để chứng minh quy tắc đó không? Tôi chỉ thấy có mỗi một trường hợp có thể coi là ngoại lệ, trường hợp Franklin Delano Roosevelt. Roóevelt là một danh nhân mà sức khoẻ thật là tệ hại. Nếu ông không mắc một bệnh nặng thì chắc gì ông đã thành một vĩ nhân.
Trái lại, trong suốt cuộc đời thành công kỳ dị của Huân tước Winston Churchill, luôn luôn ta thấy ông có đủ ba chìa khoá đó: một lương thức vững vàng, một sức hoạt động dồi dào, một thể chất gang thép.
Nhìn lại cuộc đời Churchill, ta thấy rằng tuy ông bẩm sinh đã có sẵn những điều kiện đó, nhưng ông đã biết luyện tập thêm để cải thiện lương thức, tăng cường sức hoạt động và giữ gìn sức khoẻ. Nếu chúng ta, ngay từ hồi trẻ, quyết tâm tu luyện những đức đó, thì chắc chắn có thể thành công rực rỡ trong nghề mình đã lựa.
Trong đời không có gì chua xót bằng sự thất bại. Sở dĩ nó chua xót nhất là vì dường như bao giờ cũng xảy ra do một sự lầm lỡ mà ta có thể tránh được. Sự thất bại không phải là do tiền định. Ai cũng có thể thành công trong cuộc đời của mình.
Đáng buồn là trong đa số các trường hợp, phải mất nhiều thì giờ, bỏ qua nhiều dịp may rồi chúng ta mới tìm thấy được xu hướng tự nhiên của chính mình. Do đó mà có lầm lỗi. Một thanh niên có thể lựa một nghề không hợp với mình mà hóa ra thất bại nhưng cũng có thể lựa được một nghề hợp với mình mà cũng vẫn thất bại vì không được hoạt động trong một lĩnh vực thực hợp với mình, thành thử bị chủ đánh giá thiếu khả năng, không giúp được gì hoặc giúp rất ít cho hãng. Thanh niên đó có thể tự chấp nhận sự thất bại của mình, điều đó mới đáng lo nhất, vì một khi chịu nhận rằng mình thất bại thì đã thành con người bỏ đi rồi.
Nhưng bất kì người nào hồi trẻ lao tâm mệt trí một cách vô ích để làm một việc không hợp với mình đến nỗi thất bại, cũng có thể đổi nghề mà thành công rực rỡ trong một lĩnh vực hoạt động khác. Tôi xin kể một thí dụ thực tế: nghề bán hàng cần nhất đức lạc quan; nhưng chính cái đức lạc quan đó có thể bất lợi cho một hãng buôn nếu đem dùng nó vào công việc tài chính. Vậy một hại trong ngành tài chính có thể đưa bạn tới thành công trong ngành bán hàng. Cho nên đừng thấy một thanh niên mới thất bại lần đầu mà đã vội bảo rằng con người đó bỏ đi. Cho người đó thử một việc khác, biết đâu người đó chẳng thành công.
Huân tước Reading mới đầu tập sự thủy thủ trên một chiếc tàu. Chắc ông không phải là một thủy thủ giỏi. Tôi ngờ rằng xếp của ông phải lắc đầu phàn nàn: "Chú em này làm việc dở. Không bao giờ nên thân đâu". Mà sự thực, nếu cứ ở trong ngành thuỷ quân thì ông tất đã chẳng làm nên công trạng gì hết. Nhưng ông đã bỏ ngành thủy quân và ông đã tiến tới đâu? Tới chức Trưởng quan Tư pháp của Anh rồi tới chức Phó vương ấn Độ. Trong mọi việc, sự thành công một phần là do định mệnh, một phần là do ý chí tự do của mình. Chúng ta không thể tạo ra được thiên tài, nhưng có thể bồi bổ hoặc tiêu diệt nó.
Những điều kiện nào đưa tới thành công? Tôi xin lặp lại lời đáp của tôi: lương thức, tức óc phán đoán (sáng suốt, thực tế), hoạt động và sức khoẻ. Quan trọng nhất là lương thức.
Bất kì trong công việc nào, cũng cần có lương thức trước hết. Nhiều người xây dựng được những lí thuyết rất hay, nhưng không thực hiện nó được. Thiếu lương thức thì những ý tưởng tố đẹp của họ chỉ đưa họ tới sự sụp đổ.
Nhờ có tài năng thiên phú, người ta có thể đi thẳng vào trung tâm vấn đề, như một mũi tên nhắm trúng đích trong khi cả ngàn mũi khác bắn trượt ra ngoài hết; nhưng phải có lương thức thì ta mới ghi nhận được những điều ta cần phải học hỏi ở trong xã hội, để biết rõ hơn về xã hội và có định hướng hoạt động mà ảnh hưởng lại tới xã hội. Lương thức vừa là khả năng tiêu hóa tri thức vừa là khả năng ứng dụng những tri thức đó. Nhưng có lương thức mà thiếu đức hoạt động thì cũng không có kết quả. Cũng như cối xay bột, phải đổ gạo vào, nó mới xay thành bột được. Hoạt động tức là đổ gạo vào cối.
Cho nên luôn luôn phải chú ý, sẵn sàng. Có thể trong một lúc bỏ lỡ một cơ hội rất tốt và chỉ cần sơ ý một chút là mắc một lỗi lầm không thể tha thứ được. Văn hào Kipling bảo: “Ai muốn làm César ở bất kì chỗ nào thì phải biết rõ mọi điều ở khắp nơi”. Người nào biết rõ một điều ở khắp nơi thì không để lỡ một cơ hội nào hết.
Bẩm tính con người hầu hết là biếng nhác, vô hi vọng hoặc hoạt động một cách tuyệt vọng. Hoàn cảnh có thể hướng họ về phía này hay phía khác, nhưng không có người nào bị cấm làm việc. Tài trí cần được sử dụng một cách có ý thức, vì vậy mà sự hoạt động phải được lương thức nâng đỡ. Muốn hoạt động có hiệu quả cao, thì phải biết tập trung; thuật tập trung mà ta có thể học bằng nhiều cách, là một điều kiện quan trọng nhất cho sự thành công. Nếu đã luyện được đức hoạt động rồi, thì đừng bao giờ để cho nó phân tán.
Nhưng sức khoẻ mới là nền tảng của cả lương thức lẫn hoạt động, và do đó, là nền tảng của sự thành công. Không có sức khoẻ thì việc gì cũng hóa khó. Nếu sáng dậy người ta đã quạu quọ thì làm sao trong ngày, óc có thể sáng suốt được, và có thể tỏ ra có lương thức được? Bị một bệnh nan y thì ai là người có thể làm việc tích cực được?
Tương lai thuộc về những người chịu tập thể dục mỗi buổi sáng miễn là đừng quá độ. Không một thương nhân nào có thể hi vọng thành công được nếu không rèn luyện cơ thể đúng phương pháp, nhưng phải coi chừng đấy, đừng như hạng lực sĩ tưởng rằng hễ thắng được mình là thắng được thế giới; niềm tin đó nguy hiểm lắm. Hạng lực sĩ không bao giờ nghĩ tới sự sẵn sàng làm việc mà chỉ nghĩ tới chuyện thắng kẻ khác trong một cuộc đua nào đó thôi. Lúc nào óc họ cũng có thể đưa họ tới sự thất bại, sự chán chường, bất lực.
Sự đeo đuổi khoái lạc cũng có tính chất phù du không kém. Thời gian và thói quen đều diệt cái thú của mọi sự tiêu khiển. Thú vui buổi tối đâu có đủ bù cái khổ nhức đầu sáng sớm hôm sau. ở tuổi trung niên người ta thường mới thành công trong công việc hàng ngày; đó là tuổi dễ chịu nhất trong đời người vì những gắng sức trong tuổi thanh xuân tới lúc đó mới chín muồi.
“Thú vui thoảng qua như mây nổi”. Tôi không rưa những thứ phù vân và tôi cho rằng đời sống phải là một sự phối hợp điều hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, hoan lạc. Tôi có thể nói chắc rằng trong sự phối hợp đó, nếu có một yếu tố nào phải lấn yếu tố kia, thì yếu tố đó chính là lao động. Lao động nhiều quá không có hại bằng hoan lạc nhiều quá.
Chưa bao giờ như lúc này, thế giới rộng mở bát ngát đến tận chân trời với rất nhiều cơ hội cho những ai có khát vọng thành công, mong muốn được làm việc một cách bền bỉ, kiên trì và sáng tạo, có ý thức. Không một trở ngại nào từ phía con người có thể ngăn con đường của họ. Không có gì cấm họ từ cảnh nghèo hèn mà leo lên được những đỉnh cao của giàu sang và quyền thế.
Cần luôn nhắc lại hoài rằng kẻ nào chịu khó thì có thể cải thiện lương thức, rèn luyện đức hoạt động và giữ gìn sức khoẻ của mình được. Đó là nền tảng của sự thành công.
(Còn tiếp)